Mục lục
Cụm từ “Thời Trung cổ” hay còn gọi là “thời kỳ đen tối” thường được dùng để mô tả 5 thế kỷ, bắt đầu với cuộc xâm lược nước Anh của William the Conqueror và kết thúc với thời kỳ Phục hưng vào thế kỷ 14 và 15. Đó là thời kỳ chứng kiến nền kinh tế đang phục hồi chuyển đổi từ hoạt động nông nghiệp sang hoạt động thương mại.
Trước khi William the Conqueror xâm chiếm nước Anh, nền kinh tế thời trung cổ bao gồm nền nông nghiệp tự cung tự cấp và hệ thống hàng đổi hàng. Trong suốt giai đoạn này, nó dần dần chuyển đổi sang các sản phẩm nông nghiệp được bán để đổi lấy tiền và cuối cùng là thay đổi sang một sản phẩm dựa trên giao dịch thương mại.
450 năm của nền kinh tế thời trung cổ đã chứng kiến sự gia tăng GDP bình quân đầu người và sự cải thiện chậm trong đời sống của các tầng lớp nông dân. Thời gian này không phải là không có những thách thức, bao gồm các cuộc xâm lược, các cuộc thập tự chinh và tác động tàn phá của bệnh dịch đối với các nền kinh tế.
Mục lục
Miền Trung Kinh tế thời đại
Bốn thời kỳ chính trong thời trung cổ là:
- Cuộc xâm lược nước Anh của William the Conqueror và thời kỳ đầu của người Norman (1066–1100)
- Sự tăng trưởng kinh tế trong thời trung cổ (1100–1290)
- Sự tàn phá kinh tế mà Cái chết đen gây ra (1290–1350)
- Sự phục hồi kinh tế trong thời kỳ cuối (1350– 1509)
Cuộc xâm lược của William Kẻ chinh phạt
![](/wp-content/uploads/ancient-history/380/ygbaeimy9g.jpg)
Để cung cấp một số bối cảnh cho cuộc xâm lược nước Anh của William the Conqueror. Mẹ của Vua Edward là người Norman. Harold Godwinson là người kế vị đương nhiên của Vua Edward, nhưng sau khi bị William the Conqueror bắt giữ, ông đã đồng ý từ bỏ yêu sách của mình để đổi lấy tự do.
Harold đã phản bội William và tìm cách trở thành vua sau sự kiện của Vua Edwards cái chết.
Khi nghe tin về cây thánh giá kép, William quyết định xâm chiếm nước Anh.
Trong trận Hasting vào tháng 10 năm 1066, William the Conqueror đã chiến thắng Harold (người thừa kế ngai vàng rõ ràng) và giết một phần lớn giới quý tộc Anh.
William và đồng bọn chiếm đất, đánh cắp phụ nữ và chiếm đoạt kho báu.
Cuộc chiến chống lại phương Bắc của ông vào năm 1069/70 nổi tiếng vì sự tàn bạo của nó và để lại dấu vết của đau khổ và nạn đói.
Ông đã thành lập một đội quân mới, mà ông đã trả tiền bằng cách trao đổi các lô đất thuê được cấp cho các đồng minh châu Âu của mình. Đổi lại, ông yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Nền kinh tế dưới thời William The Conqueror (1066–1100)
Trước khi William chinh phục nước Anh, nông nghiệp tự cung tự cấp là hoạt động kinh tế chính dựa trên hệ thống trao đổi hàng hóa.
Lãnh chúa và vua địa phương đánh thuế nông dân. Bởi vì các hoạt động nông nghiệp là địa phương, không có cây trồng dư thừa đã được trồng. Nói chung, thực phẩm được trao đổi để lấy thực phẩm hoặc hàng hóa khác.
William đã phá vỡ toàn bộ xã hội Anh,luật pháp, nền kinh tế và lối sống của nó đã được đại tu. Ông ủy thác việc viết cuốn sách Domesday, cuốn sách kiểm kê từng mảnh đất, lợn, ngựa và gia súc.
Mặc dù nó gây ra sự tàn ác và khó khăn to lớn, nhưng việc thu thuế của William the Conqueror đã khiến nền kinh tế Anh trở thành nền kinh tế lớn nhất ở Châu Âu.
Điều này mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế miền nam nước Anh, một số lợi ích bao gồm:
- Sản xuất tại địa phương được tăng lên để bao gồm thương mại với các khu vực khác.
- Hệ thống tài chính phát triển chính thức với các liên kết với lục địa Châu Âu.
- Tất cả các nhà thờ, tu viện và các công trình kiến trúc lớn khác đã bị phá bỏ và xây dựng lại theo phong cách Châu Âu, tạo ra việc làm và phát triển kỹ năng.
- Nhiều thị trấn, đặc biệt là Luân Đôn, được hưởng lợi từ thông lệ lục địa nhận các đặc quyền mới, trong đó tòa nhà của Nhà thờ Durham và Tháp Luân Đôn là những ví dụ.
- Đến năm 1086, 28.000 nô lệ đã được giải phóng và chế độ nô lệ Đã bị bãi bỏ.
Ngược lại, miền Bắc nổi dậy và bị William nghiền nát tàn bạo. Do đó, nền kinh tế miền Bắc, vốn đã bị cản trở bởi khí hậu khắc nghiệt, cũng bị ngăn cản tham gia thị trường và giao thương với miền Nam.
Điều này tạo ra sự mất cân bằng giàu nghèo giữa hai miền Nam và Bắc.
Nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp trong thời kỳ này, sử dụng đất đai làmsau:
- Đất canh tác chiếm 35% diện tích đất của nước Anh.
- Đồng cỏ chiếm 25%
- Đất rừng bao phủ 15%.
- Đất hoang , fens (vùng đất ngập nước tích tụ than bùn) và cây thạch nam chiếm 25%.
Các loại cây trồng chính là:
- Loại cây trồng quan trọng nhất là lúa mì.
- Các loại cây trồng như lúa mạch đen, lúa mạch và yến mạch được trồng rộng rãi.
- Các loại đậu và đậu được trồng ở những vùng màu mỡ nhất nước Anh.
Các giống vật nuôi ở Anh có xu hướng nhỏ hơn so với các giống lục địa và dần bị thay thế.
Sự thay đổi từ trao đổi hàng hóa sang trao đổi tiền đại diện cho các giá trị cụ thể là một bước phát triển đáng kể.
Sự tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ trung cổ (1100 –1290)
Trong thời kỳ tiếp theo, có bốn cuộc thập tự chinh để chiếm Jerusalem. Một số cuộc thập tự chinh đầu tiên đã thành công rực rỡ, khiến các hiệp sĩ trở nên giàu có và quyền lực.
Mặc dù các cuộc thập tự chinh được thực hiện vì một lý do cao cả, nhưng thực tế lại khác. Họ được cho là đã thu giữ chiến lợi phẩm và trở thành những kẻ cho vay tiền.
Năm 1187, vị tướng Hồi giáo Ai Cập tên là Salah-ad-Din (hay còn được gọi là Saladin ) đã đánh bại quân Thập tự chinh và chiếm lại Jerusalem.
Điều này khiến các hiệp sĩ đền từ bỏ vùng đất thánh vào năm 1187 và quay trở lại sang châu Âu, nơi hầu hết đã trở thành chủ ngân hàng.
Các cuộc thập tự chinh đã có tác động đáng kể đến các nền kinh tế thời trung cổ.
Các thành phố ven biển Venice, Genoa và Pisatrở nên giàu có nhờ cung cấp cơ sở hạ tầng giao thông và nguồn cung cấp cho quân đội Thập tự chinh.
Người Ý sống ở miền Bắc đạt được sự giàu có lớn nhất nhờ cung cấp:
- Vận chuyển người và vật liệu.
- Họ trở nên giàu có nhờ kinh doanh buôn bán.
- Họ đã tài trợ cho các cuộc viễn chinh.
Điều này biến Bắc Ý trở thành thủ phủ ngân hàng của châu Âu và trung tâm văn hóa trong thời kỳ Phục hưng ở thế kỷ 15.
Sự tàn phá kinh tế mà Cái chết đen gây ra (1290–1350)
![](/wp-content/uploads/ancient-history/380/ygbaeimy9g-1.jpg)
Pierart dou Tielt (fl. 1340-1360), Phạm vi công cộng, qua Wikimedia Commons
Vào năm 600 sau Công nguyên, dân số châu Âu xấp xỉ 14 triệu người.
- Vào thời điểm này, người Viking đã ngừng xâm lược và trở thành những công dân hữu ích ở các quốc gia bị chinh phục.
- Người Magyars (Hungary ) nắm quyền kiểm soát Hungary ngày nay và chấm dứt các cuộc xung đột.
- Người Saracen bị các vương quốc ở Nam Âu phản đối và đánh trả.
Hòa bình và sự cải tiến trong các phương pháp canh tác đã khiến dân số vào năm 1300 tăng lên khoảng 74 triệu người.
Các nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp và vì ít xung đột hơn nên nông dân có thể trồng trọt nhiều hơn.
Nhu cầu về kim loại tăng lên và do đó các hoạt động khai thác mỏ cũng tăng lên.
Trong khi hầu hết mọi người tiếp tụcsống ở khu vực họ sinh ra, nhiều người di cư đến các thị trấn và thành phố. Những người nông nô rời xa các trang trại một năm và một ngày đã được giải phóng hợp pháp và không có áp lực phải quay trở lại.
Điều này đã tạo ra sự tăng trưởng đáng kể ở các thị trấn và thành phố. Nhiều trung tâm trong số này đã tăng lên gấp sáu lần trong thế kỷ này.
- Paris có dân số 200.000
- Grenada – 150.000 (thành phố đa văn hóa lớn nhất ở miền nam Tây Ban Nha)
- London – 80.000
- Venice – 110.000
- Genoa – 100.000
- Florence – 95.000
- Milan – 100.000
Năm 1346, những người trên bến cảng Messina của Sicilia kinh hoàng khi thấy hầu hết thủy thủ trên các con tàu sắp tới đều đã chết.
Nguyên nhân là do cái chết đen. Vi khuẩn này, “Yersinia pestis,” đã gây ra bệnh dịch hạch và lây lan từ châu Á.
Bệnh dịch lây lan qua tiếp xúc với những người mắc bệnh. Với quy mô dân số thị trấn và thành phố ngày càng tăng, nó có nơi sinh sản hoàn hảo để truyền bệnh.
Cái chết đen lây lan nhanh chóng và giết chết hơn 20 triệu người, tương đương 1/3 dân số châu Âu.
Sự gián đoạn kinh tế do bệnh dịch hạch gây ra thật tàn khốc.
Việc xây dựng ngừng lại, các mỏ bị đóng cửa và ở một số vùng, hoạt động canh tác bị cắt giảm.
Do phía cung của nền kinh tế chùn bước, lạm phát trở nên tràn lan, và giá cả hàng hóa có nguồn gốc trong nước và nước ngoài tăng lênồ ạt.
Lao động nông nghiệp bị thiếu hụt. Nông dân (Nông nô) không còn bị ràng buộc với một chủ và có thể thương lượng các điều khoản giữa một số Lãnh chúa.
Nếu một nông nô bỏ chủ, anh ta sẽ ngay lập tức được chủ khác mời làm việc. Điều này làm tăng sự giàu có của tầng lớp nông dân.
Tiền lương tăng vượt xa chi phí và mức sống bắt đầu được cải thiện.
Sự phục hồi kinh tế trong thời kỳ cuối (1350–1509)
Hòa bình bị gián đoạn trong phần đầu của thời kỳ này với cuộc chiến tranh 100 năm (1337–1453) giữa Vương quốc Anh và Pháp.
Ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế và các loại thuế tăng lên đã được áp dụng. Năm 1381 Cuộc nổi dậy của Wat Tyler (cuộc nổi dậy của nông dân) nổ ra.
Mặc dù cuộc nổi dậy bị đàn áp nhưng nó đã có tác động lâu dài đến nước Anh.
Một trong những tác động là việc di chuyển khỏi nước Anh một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế nơi các thương nhân và thương nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng.
Phần lớn của cải được tạo ra trong thời kỳ này là do các thương nhân chăm chỉ buôn bán và trở nên giàu có. Đây là một sự thay đổi đáng kể từ việc chủ đất đánh thuế nông dân.
Các hoạt động khác bao gồm:
- Chăn nuôi gia súc.
- Ngân hàng
- Ngành công nghiệp đóng tàu đang bùng nổ
- Khai thác gỗ.
- Khai thác quặng sắt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về kim loại.
- Sản xuất dệt may.
- Mua bán lông thú.
- Sản xuất giấy.
Thương mại vải tăngđáng kể, và Anh trở thành nhà xuất khẩu vải chính trong thời kỳ này.
Đến năm 1447, thương mại vải từ Anh đã tăng lên 60.000 chiếc.
Trong thời kỳ này, thương mại quốc tế cũng phát triển. Con đường tơ lụa nổi tiếng đã trở thành tuyến đường thương mại chính giữa Châu Âu, Trung Á và Trung Quốc.
Các tầng lớp thấp hơn bắt đầu có nhiều của cải hơn, đến mức các luật được ban hành nhằm giảm tiêu dùng.
Nông dân không được phép mua một số sản phẩm nhất định và cũng không được phép mặc quần áo đẹp được mặc bởi xã hội cao. Mặc dù vậy, mức sống của họ đã được cải thiện đáng kể.
Các thành phố thương mại thịnh vượng ở Ý đã xuất hiện, cũng như nền tảng của các hệ thống tài chính và kế toán hiện đại.
Xem thêm: Động vật của Ai Cập cổ đạiSự tăng trưởng ở các thành phố phía Bắc nước Ý ' sự giàu có đã trở thành bệ phóng cho giai đoạn lịch sử tiếp theo, cụ thể là thời kỳ Phục hưng.
Các nghệ sĩ có thể tạo ra những kiệt tác của mình nhờ những nhà hảo tâm giàu có tài trợ cho họ.
Xem thêm: Nông dân có mặc áo nịt ngực không?- Michael Angelo (1475 –1564 .)
- Leonardo da Vinci (1452 –1519.)
- Raffaello Santi “Raphael” (1483 – 1520.)
- Hieronymus Bosch (1450 –1516.)
Kết luận
Thời trung cổ bắt đầu với việc William the Conqueror xâm lược nước Anh vào tháng 10 năm 1066 và kết thúc với sự khởi đầu của thời kỳ Phục hưng vào thế kỷ 14 và 15. Có thể tranh cãi rằng nếu sự tăng trưởng trong nền kinh tế thời trung cổđã không xảy ra, thời kỳ Phục hưng cũng sẽ bị ngăn chặn.
Thời kỳ này chứng kiến sự cải thiện trong đời sống của các tầng lớp nông dân và khối tài sản khổng lồ được tạo ra ở Nam Âu, đặc biệt là Ý.